 |
Trao đổi với phóng viên Báo Thương Mại ngay sau khi thực hiện điều chỉnh giá xăng dầu mới đây, Ông Đoàn Văn Kiển, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) nói…
|
“Thế giới đã hình thành mặt bằng giá mới, Việt Nam cũng tất yếu phải theo, chứ chúng tôi không thể đi riêng một mình được. Giá dầu thế giới lên 99 USD một thùng, xăng dầu nước ta phải nhập khẩu 100%; nhà nước quyết định tăng giá bán trong nước là đúng quy luật của thị trường…”.
Nói về ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu, ông Kiển cho biết: sản xuất than và khoáng sản chịu rất nhiều tác động. Tuy nhiên TKV chấp nhận tác động đó, không thể đảo ngược được. Thế thì giá than sắp tới cũng sẽ phải tăng theo là chuyện đương nhiên và TKV đã báo cáo với Bộ Tài chính để có lộ trình điều chỉnh… Theo ông Kiển, cho dù giá dầu có tăng cao thêm nữa thì TKV vẫn có những biện pháp quản lý cũng như tiết kiệm hữu hiệu, bảo đảm chi phí sản xuất không tăng cao và tình hình tài chính của TKV trong năm 2008 dự báo sẽ tốt hơn nhiều so với năm 2007.
Về các giải pháp giảm chi phí xăng dầu, ông Kiển cho biết: TKV đang thực hiện hai dự án tiết kiệm năng lượng. Thứ nhất để tiết kiệm điện, hiện nay một số mỏ than đang sử dụng máy biến tần và khởi động mềm, kết quả nhiều động cơ tiết kiệm tới 40 - 50% điện năng, còn bình quân giảm được 10%. Từ kết quả này, năm 2008, biện pháp sử dụng công nghệ biến tần và khởi động mềm sẽ được tập đoàn triển khai toàn bộ ở tất cả các mỏ để tiết kiệm điện. Về tiết kiệm xăng dầu, TKV cũng đang thử nghiệm việc đưa vật liệu phụ gia theo công nghệ NANO vào dầu diezen. Đánh giá sơ bộ về hiệu quả cho thấy, đưa phụ gia này vào cũng có thể giảm được 5% lượng dầu.
Theo ông Kiển, một năm TKV sử dụng lượng dầu rất lớn, ví như năm 2007 tới 200 ngàn tấn, tiết kiệm được 5% cũng giảm được 10 ngàn tấn dầu cho sản xuất. Tuy nhiên, để giảm được dầu thì phải chi phí mua phụ gia ở mức 2%, như vậy tính về mặt kinh tế, ít nhất vẫn giảm được tiêu hao dầu tới 2 - 3%. Ông Kiển nhấn mạnh, sử dụng phụ gia theo công nghệ NANO là một công nghệ hoàn toàn mới. Lãnh đạo Tập đoàn TKV đang quyết tâm đưa phụ công nghệ NANO vào sản xuất, thành một cơ chế của tập đoàn, để khoán chi phí cho các công ty thành viên, chứ không phải đơn vị nào muốn làm thì làm, không làm thì thôi… - Theo Báo Thương Mại
Giải pháp hàng đầu là tiết kiệm chi phí
Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Ðoàn Văn Kiển, Chủ tịch HÐQT Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam về vấn đề tiết kiệm chi phí trong sản xuất.
(VTR)_ Là nhà sản xuất, tôi rất đồng tình với kết luận của Bộ Chính trị về tám nhóm giải pháp kiềm chế lạm pháp của Chính phủ và chúng tôi đang tập trung mọi nỗ lực vào ba nhóm giải pháp đó là: Đẩy mạnh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư hiệu quả, đẩy mạnh sản xuất và quản trị chặt chẽ chi phí, tiết kiệm tiêu dùng.
Coi trọng đầu tư hiệu quả
... Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã xác định chiến lược phát triển bền vững là: "Từ tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực đi lên giàu mạnh, thân thiện với môi trường, hài hòa với địa phương và cộng đồng; hài hòa với đối tác và bạn hàng; hài hòa trong nội bộ và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, viên chức và người lao động".
Tập đoàn đang tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông và khôi phục, cải thiện môi trường; khắc phục cho được sự bất cập giữa kết cấu hạ tầng và sự gia tăng sản lượng than; giữa ô nhiễm môi trường và sự gia tăng sản lượng than. Cùng với quá trình trên, Tập đoàn và các công ty thành viên đang đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng cơ giới hóa, tự động hóa nhằm nâng cao mức độ bảo đảm an toàn lao động và nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Ðể đáp ứng được nhu cầu than cho ngành điện và các ngành khác đang gia tăng và sẽ tăng đột biến vào năm 2010 - 2011 khi hàng loạt các nhà máy nhiệt điện mới sẽ đi vào vận hành thương mại (5.000-6.000MW). Tập đoàn đã và đang đầu tư mở rộng, nâng cao công suất các mỏ và nhà máy tuyển than hiện có, xây dựng thêm các mỏ và nhà máy tuyển mới nhằm đạt công suất hơn 50 triệu tấn than vào năm 2010.
Bên cạnh việc phát triển vùng than Quảng Ninh, Tập đoàn đã thành lập Công ty Năng lượng Sông Hồng và đang chuẩn bị tích cực để cuối năm nay triển khai trên thực địa công nghệ khí hóa than ngầm dưới lòng đất tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên thuộc bể than đồng bằng Sông Hồng. Tập đoàn cũng đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư tại Cẩm Phả một tổ hợp công nghiệp môi trường để tái chế, tái sử dụng chất thải. Tổ hợp này gồm ba nhà máy, đó là Nhà máy xử lý nước thải mỏ Cọc Sáu và Ðèo Nai thành nước công nghệ cung cấp cho nhà máy điện; Nhà máy điện 2x135MW đốt hỗn hợp xít thải mỏ và than xấu có nhiệt lượng khoảng 3.200 - 3.500kcal/kg và nhà máy gạch có nguyên liệu đầu vào từ tro xỉ nhà máy điện. Một nhà máy gạch công suất lớn sử dụng xít thải của Nhà máy tuyển than Cửa Ông cũng đang được nghiên cứu đầu tư xây dựng. Dự kiến nhà máy nhiệt điện nói trên sẽ cung cấp điện cho các mỏ than bảo đảm cho các mỏ than luôn có hai nguồn điện theo quy định của quy phạm an toàn mỏ.
Ngành đã có bước đột phá trong việc biến than xấu thành điện và điển hình là Nhà máy nhiệt điện Na Dương 100MW đã vận hành thương mại từ tháng 11-2006. Lần đầu ở Việt Nam đã xuất hiện một nhà máy nhiệt điện sử dụng công nghệ lò hơi tầng sôi tuần hoàn thân thiện với môi trường có thể đốt than xấu 3.000-3.500kcal/kg và hàm lượng lưu huỳnh hơn 6,5%.
Hiện tại, Tập đoàn phát triển sáu dự án nhà máy nhiệt điện đốt than nhiệt lượng thấp đặt tại vùng mỏ với tổng công suất 1.500MW. Các nhà máy này đã và sẽ được lần lượt đưa vào vận hành từ năm 2006 đến 2010.
...Tập đoàn đã đề ra mục tiêu và định hướng phát triển bền vững là khai thác và chế biến sâu theo quy mô công nghiệp, sử dụng ngay từ đầu công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, hài hòa với địa phương và cộng đồng. Trên nguyên tắc đó, Tập đoàn đã cơ cấu lại các cơ sở khai thác, chế biến khoáng sản thuộc Tổng công ty khoáng sản thành các công ty cổ phần đăng ký tại các địa phương, hợp tác với các công ty khác để cùng đầu tư, khai thác, chế biến sâu khoáng sản.
Vừa qua, Tổng công ty khoáng sản đã hoàn thành đầu tư đưa Nhà máy luyện kẽm Thái Nguyên 10.000 tấn/năm và Tổ hợp đồng Sin Quyền - Tằng Loỏng Lào Cai vào hoạt động. Ðây là hai dự án luyện kim mầu rất hiệu quả và tới đây Tập đoàn sẽ mở rộng quy mô khai thác mỏ và các nhà máy luyện kim. Mỏ thiếc Tĩnh Túc, Cao Bằng cái nôi của ngành khoáng sản đã được Bác Hồ về thăm cách đây 50 năm (15-9-1958) đang được củng cố, đầu tư bổ sung để khai thác tiếp trữ lượng quặng còn lại và tận thu các bãi thải cũ.
Tại Cao Bằng còn có một dự án khai thác quặng sắt và xây dựng nhà máy liên hợp gang thép đang được Tổng công ty khoáng sản chủ trì đầu tư, dự kiến cuối năm 2009, đầu năm 2010 sẽ đưa vào sản xuất với công suất 220.000 tấn thép/năm; một dự án thép tương tự đang được chuẩn bị đầu tư ở Lào Cai...
Ðể phát triển nhanh và có hiệu quả các dự án than - khoáng sản nói trên không thể dựa vào nhập khẩu tất cả vật tư, thiết bị chủ yếu mà phải đầu tư phát triển cơ khí chế tạo máy để tự trang bị một phần máy mỏ, thiết bị chuyên dùng, xe tải nặng, phương tiện vận tải thủy, nhất là trong hoàn cảnh Thủ tướng Chính phủ vừa trao cho Tập đoàn nhiệm vụ tổ chức nhập khẩu và vận tải than bắc - nam để cung cấp cho các nhà máy điện và nhu cầu khác.
Ðẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm
Có thể nói rằng tất cả các sản phẩm do Tập đoàn TKV sản xuất hiện đang có nhu cầu cao trên thị trường trong nước và thế giới, vì vậy đẩy mạnh sản xuất không chỉ có vai trò cùng cả nước kiềm chế lạm phát mà còn là cơ hội kinh doanh tốt cần phải được vận dụng. Ðảng ủy, HÐQT và Tổng giám đốc Tập đoàn đã quán triệt kỹ các chủ trương và giải pháp đẩy mạnh sản xuất với lãnh đạo các công ty thành viên và công nhân, viên chức để mọi người cùng cố gắng không những chỉ hoàn thành mà phải hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh đã đề ra, cung ứng đủ hàng hóa nhất là than cho thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Một điều kiện quan trọng được đặt ra cho việc tăng sản lượng là phải bảo đảm các chỉ tiêu công nghệ, an toàn lao động và an toàn môi trường. Giải pháp mạnh nhất mà Tập đoàn và các công ty thành viên áp dụng trong năm nay là hợp lý hóa tổ chức sản xuất, tổ chức lao động đồng thời với việc tạo ra động lực mạnh thúc đẩy công nhân, cán bộ tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Tiết kiệm chi phí để nâng cao sức cạnh tranh luôn là một trong các giải pháp hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay khi giá cả biến động với biên độ lớn có lúc khó lường thì sự tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng, nhân công càng trở nên cấp thiết. Ðối với ngành than từ năm 1997 trên cơ sở hợp tác với Viện WDI, Trường kinh doanh Ðại học Michigan Hoa Kỳ, TKV đã xây dựng phương pháp và phần mềm quản trị chi phí theo cách tính chi phí theo công đoạn sản xuất thay cho cách tính chi phí theo bảy yếu tố hình thành.
TKV đã tổ chức để các công ty khoán chi phí cho các tổ, đội sản xuất và Tập đoàn khoán chi phí cho các công ty thành viên trên cơ sở các chỉ tiêu công nghệ và định mức kỹ thuật - kinh tế tiên tiến. Cơ chế khoán - quản chi phí này đã tạo ra sân chơi công bằng cho các công ty thành viên và cho phép mỗi công ty con và công ty mẹ chủ động quản trị chi phí, quản trị doanh thu và lãi của mình. Công ty nào thực hiện chi phí thấp hơn mức khoán thì giám đốc và tập thể người lao động được thưởng, ngược lại phải giảm trừ lương và giám đốc có thể bị thay thế mà không phải chờ đến khi xuất hiện lỗ.
Năm nay, Tập đoàn đã đưa thẳng vào kế hoạch khoán chi phí cho các công ty thành viên việc giảm chi phí do áp dụng kết quả nghiên cứu sử dụng máy biến tần và khởi động mềm để tiết kiệm điện và SỬ DỤNG PHỤ GIA NANÔ TRONG ĐIÊDEN ĐỂ TIẾT KIỆM NHIÊN LIỆU. Chỉ riêng việc sử dụng máy biến tần và khởi động mềm có thể tiết kiệm 5-10% suất tiêu hao điện tính trên một tấn than. Tương tự nơi nào có thể sử dụng phụ gia na-nô, nơi ấy có thể tiết kiệm 3% nhiên liệu. Các công ty trong Tập đoàn cũng sắp xếp, tổ chức sản xuất hợp lý sao cho tránh sử dụng nhiều điện trong giờ cao điểm; các mỏ than thường tập trung bơm nước vào ban đêm để góp phần bình ổn lưới điện và được hưởng giá điện thấp.
Như vậy, việc tiết kiệm chi phí trong ngành than - khoáng sản được thực hiện chủ yếu bằng các giải pháp công nghệ và tổ chức sản xuất, đồng thời có cơ chế - chế tài rõ ràng cho việc thực hiện.
Nguồn tin: Báo Nhân Dân- Số 19258, ngày 12/05/2008 (Được đăng lại trên Tạp chí thương mại ONLINE, Bộ Công Thương- 15/06/2008). |